Đã có nhiều lo ngại rằng việc Mỹ từ bỏ vai trò dẫn dắt trong cuộc chiến chống lại các loại dịch bệnh trên thế giới sẽ tạo ra khoảng trống để Trung Quốc lấp đầy và tạo ra tầm ảnh hưởng và có tiếng nói quyết định trong các vần đề y tế toàn cầu. Tuy nhiên, thực tế sẽ rất khác, vì Trung Quốc chỉ quan tâm đến những nơi mà nước này thật sự có lợi ích trong khi sẵn sàng phớt lờ nguy cơ ở những địa bàn khác. Điều đó có nghĩa là những rủi ro về y tế trong giai đoạn tới là rất lớn, có thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng quy mô toàn cầu.
Những người chỉ trích các động thái ban đầu của chính quyền Trump đối với y tế toàn cầu—rút khỏi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và làm tê liệt các chương trình y tế quốc tế do Mỹ tài trợ—lo ngại rằng những hành động này sẽ khiến Washington mất đi vai trò lãnh đạo lâu dài vào tay Bắc Kinh. Họ cảnh báo rằng quyền lực và uy tín của Mỹ sẽ suy giảm, trong khi Trung Quốc sẽ trỗi dậy.
Thực tế còn tồi tệ hơn. Nếu sự rút lui của Mỹ khỏi y tế toàn cầu tiếp tục, điều đó sẽ tạo cơ hội cho Trung Quốc khai thác khoảng trống mà các chương trình của Mỹ để lại ở một số khu vực chiến lược. Trung Quốc đã bắt đầu thay thế nguồn tài trợ tại Đông Nam Á và có thể làm điều tương tự ở Mỹ Latinh. Nhưng tại hầu hết các khu vực mà viện trợ của Mỹ hướng đến, bao gồm cả những nơi có nguy cơ bệnh tật cao nhất, Trung Quốc sẽ không nhảy vào. Lãnh đạo Trung Quốc tập trung vào việc sử dụng viện trợ để xây dựng ảnh hưởng với các đối tác chiến lược, chứ không muốn đảm nhận vai trò của Mỹ trong việc ngăn chặn, phát hiện và đối phó với các dịch bệnh nguy hiểm nhất thế giới.
Nếu không có sự hỗ trợ bền vững cho các tổ chức quốc tế hoặc các chương trình y tế tại các quốc gia nghèo nhất, khoảng trống trong y tế toàn cầu sẽ khiến tất cả mọi người kém an toàn hơn. Nguy cơ lớn nhất đối với người Mỹ không phải là Trung Quốc sẽ thay thế Mỹ trở thành nước dẫn đầu về y tế toàn cầu, mà là sẽ không có ai đảm nhiệm vai trò đó.
Nền móng mà Mỹ đã xây dựng
Trong 25 năm qua, nguồn tài trợ, ảnh hưởng ngoại giao và chuyên môn kỹ thuật của Mỹ đã giúp đạt được những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực y tế toàn cầu. Hàng loạt tổ chức và chương trình quốc tế, chủ yếu do Mỹ khởi xướng và tài trợ, đã nhắm vào các căn bệnh mà các nước nghèo không thể tự đối phó, với các giải pháp y tế đòi hỏi quy mô và cơ sở hạ tầng mà chỉ một liên minh quốc tế mới có thể cung cấp.
Hỗ trợ của Mỹ cho y tế toàn cầu chỉ chiếm một phần nhỏ trong ngân sách quốc gia nhưng lại đóng vai trò rất lớn trong tổng nguồn tài trợ y tế quốc tế. Năm 2023, chi tiêu của Mỹ cho y tế toàn cầu chiếm khoảng 0,3% ngân sách liên bang (20,6 tỷ USD trong tổng ngân sách 6,1 nghìn tỷ USD). Tuy nhiên, trong năm đó, con số đóng góp này của Mỹ chiếm gần 75% viện trợ quốc tế dành cho HIV/AIDS, 40% viện trợ chống sốt rét và hơn một phần ba tài trợ để chống lao. Cho đến năm nay, Mỹ cũng vẫn đang là nước tài trợ lớn nhất cho WHO, là nhà cung cấp vắc xin lớn nhất cho sáng kiến vắc xin COVID-19 đa phương, và là động lực chính đằng sau Quỹ Đại dịch của Ngân hàng Thế giới, giúp đầu tư vào các quốc gia có thu nhập thấp nhằm ngăn chặn sự bùng phát của các bệnh truyền nhiễm.
Hàng triệu người ở các quốc gia nghèo nhất thế giới hưởng lợi từ viện trợ của Mỹ. Các tổ chức và chương trình do Mỹ tài trợ, bao gồm WHO, liên minh vắc xin Gavi và Quỹ Toàn cầu chống AIDS, Lao và Sốt rét, đã cung cấp vắc xin, chăm sóc y tế và các biện pháp can thiệp cứu sống bệnh nhân trên khắp thế giới. Gần 21 triệu người nhiễm HIV đang dựa vào Kế hoạch khẩn cấp của Tổng thống Mỹ về cứu trợ AIDS (PEPFAR) để được điều trị bằng thuốc kháng virus. Gavi giúp tiêm chủng cho gần 70 triệu trẻ em mỗi năm chống lại các bệnh nguy hiểm ở trẻ nhỏ. Chưa kể, gần 75% viện trợ y tế song phương (không tính đa phương) của Mỹ được dành cho các quốc gia ở khu vực châu Phi cận Sahara.
Lợi ích từ những khoản đầu tư này là vô cùng lớn. Kể từ khi PEPFAR bắt đầu vào năm 2003, số ca tử vong do HIV/AIDS trên toàn cầu đã giảm hơn 50%. Số người chết vì bệnh lao và sốt rét cũng giảm một phần ba trong cùng kỳ. Năm 2000, có 42 quốc gia—bao gồm hầu hết các nước ở châu Phi cận Sahara—nơi cứ 10 trẻ em thì có ít nhất một em không sống qua sinh nhật lần thứ năm. Ngày nay, con số này chỉ còn lại bốn quốc gia.
Lợi ích từ viện trợ của Mỹ không chỉ dừng lại ở việc giảm tử vong do các bệnh cụ thể. Nhân viên y tế Mỹ cũng giúp thế giới chuẩn bị tốt hơn trước mọi mối đe dọa sức khỏe trong tương lai. Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) đã hợp tác với bộ y tế của 90 quốc gia để phát triển các hệ thống theo dõi dịch bệnh, từ HIV đến cúm gia cầm H5N1.
Tiền tài trợ của Mỹ đã giúp xây dựng phòng thí nghiệm, đào tạo và nghiên cứu, cho phép các nhà khoa học phát hiện sớm ca nhiễm COVID-19 đầu tiên bên ngoài Trung Quốc. Một trung tâm điều hành khẩn cấp được Mỹ tài trợ để chống lại bệnh bại liệt đã giúp ngăn chặn thảm họa vào năm 2014, khi virus Ebola suýt lan đến những con phố đông đúc của Lagos, Nigeria. Nghiên cứu do Mỹ tài trợ cũng đã phát triển vắc xin mà thế giới hiện đang dựa vào để ngăn chặn sự lây lan của bệnh đậu mùa khỉ (mpox).
Mỗi kinh nghiệm này đều đem lại một bài học: nếu không ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm ngay từ nguồn, chúng có nguy cơ lan rộng trên toàn cầu, gây hậu quả nghiêm trọng cho tất cả mọi người. Cải thiện sức khỏe tại những nơi nghèo nhất thế giới cũng đồng nghĩa với việc cải thiện sức khỏe cho các quốc gia khác, bao gồm cả Mỹ.
Tài trợ kiểu “khôn lỏi” của Trung Quốc
Khi Mỹ rút lui khỏi lĩnh vực y tế toàn cầu, Trung Quốc đã bắt đầu khai thác tình trạng hỗn loạn phát sinh. Ở Nepal, các quan chức Trung Quốc được cho là đã trấn an các chính trị gia địa phương rằng Bắc Kinh “sẵn sàng hỗ trợ nếu Nepal gặp khó khăn về viện trợ nhân đạo, y tế và giáo dục.” Tại Campuchia, Trung Quốc đã công bố các chương trình tài trợ mới cho sức khỏe trẻ em, dinh dưỡng và vệ sinh, đồng thời cấp khoản tài trợ 4,4 triệu USD để tháo gỡ bom mìn – tất cả diễn ra trong sáu tuần đầu tiên sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump ra lệnh đóng băng tài trợ của USAID. Ở Bangladesh, giám đốc một hiệp hội các tổ chức phát triển địa phương nói với báo giới: “Chúng tôi cần đa dạng hóa nguồn tài trợ. Trung Quốc cũng là một người bạn tốt của Bangladesh.” Còn ông Hu Zhangliang, Phó Chủ tịch Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Trung Quốc, hứa rằng: “Chúng tôi sẽ không hành xử như một số quốc gia, khiến các nước nhận viện trợ cảm thấy bất lực, bất ngờ hoặc không có sự chuẩn bị.”
Tuy nhiên, hồ sơ viện trợ phát triển gần đây của Trung Quốc không tương xứng với những lời cam kết này. Bắc Kinh không ưu tiên các chương trình đa phương, các mối đe dọa bệnh tật xuyên biên giới hay viện trợ cho các quốc gia nghèo nhất. Nước này cũng tỏ ra hoài nghi đối với các tổ chức y tế toàn cầu và có mối quan hệ phức tạp, đôi khi căng thẳng với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Những ai kỳ vọng vào Trung Quốc sẽ có thể thất vọng.
Hãy lấy WHO làm ví dụ. Mặc dù là thành viên sáng lập, nhưng mãi đến sau đại dịch SARS 2002–2003, Trung Quốc mới bắt đầu coi trọng mối quan hệ với tổ chức này. Bộ Y tế Trung Quốc đã biết về một chủng viêm phổi nguy hiểm mới ở tỉnh Quảng Đông trong nhiều tháng trước khi chia sẻ thông tin này với người dân trong nước hoặc các chính phủ khác. Khi đại dịch SARS lan rộng, cuối cùng ảnh hưởng đến 29 quốc gia và khiến gần 800 người tử vong, Tổng Giám đốc WHO lúc bấy giờ, bà Gro Brundtland, đã công khai khiển trách Trung Quốc vì thiếu minh bạch và ban hành cảnh báo đi lại đầu tiên của tổ chức, khuyến cáo không đến Quảng Đông và Hồng Kông.
Nhằm khôi phục uy tín, Trung Quốc đã tăng cường hợp tác với WHO. Bắc Kinh tham gia mạng lưới phòng thí nghiệm ảo của WHO, giúp soạn lại các quy định y tế quốc tế của tổ chức này và đầu tư vào giám sát dịch bệnh. Năm 2006, cựu Giám đốc Y tế Hồng Kông, Tiến sĩ Margaret Chan, được bầu làm Tổng Giám đốc WHO – người Trung Quốc đầu tiên lãnh đạo một tổ chức lớn của Liên Hợp Quốc. Và đó là khi Trung Quốc thể hiện tính toán của mình.
Mối quan hệ gần gũi hơn đã mang lại lợi ích cho Trung Quốc. Kể từ năm 2017, dưới áp lực của Bắc Kinh, WHO đã gạt bỏ Đài Loan, không còn mời hòn đảo này tham gia Đại hội đồng Y tế Thế giới với tư cách quan sát viên. Năm 2017, WHO đã ký một thỏa thuận với Trung Quốc để cùng thực hiện sáng kiến Vành đai và Con đường. Năm 2019, WHO bổ sung y học cổ truyền Trung Quốc vào Danh mục Phân loại Bệnh tật Quốc tế.
Khi thông tin về dịch COVID-19 bùng phát ở Vũ Hán vào tháng 1-2020 xuất hiện, WHO đã không chỉ trích phản ứng của Bắc Kinh. Điều này không có gì bất ngờ, vì WHO phụ thuộc vào sự hợp tác của các quốc gia thành viên và đề cao tinh thần đoàn kết trong khủng hoảng. Nhưng sự nhún nhường đối với Trung Quốc đã vượt xa thông lệ. Được cho là dưới sức ép của Bắc Kinh, WHO đã trì hoãn một tuần trước khi tuyên bố dịch COVID-19 là tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu. Trung Quốc đã chậm chia sẻ mức độ lây truyền từ người sang người trong giai đoạn đầu quan trọng và không muốn cung cấp mẫu sinh học cho WHO, nhưng một quan chức WHO vẫn ca ngợi Bắc Kinh vì “sự cởi mở trong chia sẻ thông tin.”
Sự ủng hộ này đã giúp WHO chiếm được thiện cảm ở Trung Quốc – người dùng WeChat và Weibo trìu mến gọi Tổng Giám đốc WHO, ông Tedros Adhanom Ghebreyesus, là “Bí thư Tan,” một cụm từ thường dành cho các quan chức Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng động thái này lại khiến Mỹ phẫn nộ. Mong muốn thoái thác trách nhiệm cho phản ứng yếu kém của chính quyền mình đối với đại dịch COVID-19, Trump đã đình chỉ tài trợ cho WHO vào tháng 4-2020 và sau đó tuyên bố Mỹ sẽ rút khỏi tổ chức này, gọi WHO là quá “thiên vị Trung Quốc.” Bắc Kinh nhanh chóng tận dụng cơ hội ngoại giao, cam kết thêm 30 triệu USD để bù đắp một phần thiếu hụt tài trợ từ Mỹ.
Mặc dù nguồn tài trợ từ Trung Quốc tăng lên, WHO vẫn cố gắng tạo khoảng cách với Bắc Kinh để xoa dịu Mỹ. Khi các nhà khoa học chỉ trích kết quả sơ bộ của một nghiên cứu chung giữa WHO và Trung Quốc về nguồn gốc COVID-19, ông Tedros đã rời bỏ thái độ nhún nhường thường thấy với Bắc Kinh. Ông cho rằng nghiên cứu này chưa loại trừ khả năng virus rò rỉ từ phòng thí nghiệm ở Trung Quốc và kêu gọi Bắc Kinh hợp tác trong giai đoạn hai của cuộc điều tra. Trung Quốc từ chối yêu cầu này, và truyền thông nước này cáo buộc ông Tedros trở thành “cái loa của Mỹ.”
Căng thẳng tiếp tục sau đại dịch. Năm 2023, Trung Quốc được cho là đã phản đối mức tăng 20% trong đóng góp cho WHO. Cùng năm đó, ông Tedros bị cho là đã từ chối ứng viên mà Trung Quốc ủng hộ cho vị trí trợ lý tổng giám đốc WHO và thay vào đó bổ nhiệm một nhân sự cấp cao của tổ chức. Trung Quốc cũng không nhiệt tình với hiệp ước đại dịch mới mà WHO đang thúc đẩy, chỉ cử các quan chức cấp thấp tham gia đàm phán và duy trì lập trường “không phản đối nhưng cũng không mong muốn xảy ra,” theo một nhà quan sát Trung Quốc.
Đóng góp “bủn xỉn”
Từ khi Trump một lần nữa hứa sẽ rút Mỹ khỏi WHO vào tháng 1, Trung Quốc dường như không sẵn sàng thay thế hoàn toàn vai trò của Mỹ. Tháng 2, Bắc Kinh báo hiệu sẽ phản đối kế hoạch tăng phí thành viên để các khoản đóng góp phản ánh GDP của mỗi nước. Mặc dù Trung Quốc sẽ trở thành nhà tài trợ lớn nhất cho WHO sau khi Mỹ rút lui, nhưng trong năm 2023, các khoản đóng góp thành viên chỉ chiếm 12% ngân sách của tổ chức. Bắc Kinh có thể sẽ không bù đắp phần lớn nguồn tài trợ của Mỹ, là nơi mà phần lớn vốn đóng góp là tự nguyện.
Sự miễn cưỡng của Trung Quốc trong việc lấp đầy khoảng trống tài chính do Mỹ để lại có thể mở rộng sang các tổ chức đa phương khác. Đến nay, Bắc Kinh đã đóng góp rất ít cho hầu hết các tổ chức y tế toàn cầu, ưu tiên tiếp cận song phương hơn là đa phương. Trước đại dịch COVID-19, Trung Quốc chi khoảng 600–800 triệu USD mỗi năm cho viện trợ y tế, nhưng chỉ 10% trong số đó thông qua các kênh đa phương.
Bắc Kinh bắt đầu tài trợ cho Gavi vào năm 2016, nhưng tổng số tiền ngoài COVID-19 chỉ đạt 25 triệu USD trong mười năm, trong khi Mỹ đã đóng góp hơn 2 tỷ USD chỉ trong năm năm qua. Các khoản tài trợ của Trung Quốc cho Quỹ Toàn cầu cũng khiêm tốn: Mỹ đã đóng góp hơn 26 tỷ USD, trong khi Trung Quốc chỉ đóng 90 triệu USD, xếp sau 21 chính phủ khác. Trong tổng số 3,6 tỷ USD mà thế giới quyên góp cho Quỹ Ứng phó Ebola của LHQ, Trung Quốc chỉ đóng góp 47 triệu USD (hơn 1%), trong khi Mỹ đóng 1,8 tỷ USD (49%).
Nhiều quốc gia riêng lẻ, giống như các tổ chức quốc tế, sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ của Trung Quốc để thay thế nguồn tài trợ từ Hoa Kỳ, nhưng xu hướng gần đây trong viện trợ song phương của Bắc Kinh cho thấy hầu hết sẽ không nhận được điều đó. Năm 2023, viện trợ phát triển y tế song phương của Trung Quốc—các khoản tài trợ trực tiếp đến người nhận thay vì thông qua các tổ chức quốc tế—đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2010.
Trung Quốc trên hết
Khi tổng chi tiêu giảm, Trung Quốc tập trung ngân sách ít hơn vào các mối đe dọa lớn nhất đối với y tế toàn cầu và nhiều hơn vào việc thúc đẩy lợi ích quốc gia của mình.
Để đạt được mục tiêu này, phần lớn viện trợ y tế gần đây của Trung Quốc nhắm đến các quốc gia tham gia Sáng kiến Vành đai và Con đường. Điều này đồng nghĩa với việc chuyển hướng từ các dự án viện trợ kiểm soát sốt rét ở châu Phi sang các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở Đông Nam Á và Mỹ Latinh. Tuy viện trợ tại châu Phi chưa hoàn toàn biến mất, Trung Quốc vẫn duy trì một số dự án y tế nổi bật, chẳng hạn như việc hoàn thành trụ sở mới và phòng thí nghiệm an toàn cao cho Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Châu Phi (Africa CDC) tại Addis Ababa. Viện Nghiên cứu Gen Bắc Kinh (BGI), tập đoàn nghiên cứu gen lớn của Trung Quốc, đã cung cấp công nghệ giải trình tự gen giá rẻ cho một số quốc gia châu Phi nhằm phục vụ giám sát bệnh truyền nhiễm, trong nỗ lực “giành quyền kiểm soát những vị trí trọng yếu trong cạnh tranh công nghệ sinh học quốc tế,” theo lời của chính viện này.
Xu hướng dịch chuyển là rất rõ ràng. Mười lăm năm trước, bốn trong năm quốc gia nhận viện trợ y tế lớn nhất từ Trung Quốc là các nước châu Phi; ngày nay, chỉ còn lại một quốc gia.
Viện trợ y tế trong đại dịch COVID-19 của Trung Quốc lại càng phản ánh rõ hơn các ưu tiên địa chính trị của nước này. Bắt đầu từ tháng 4-2020, Trung Quốc phát động chiến dịch xây dựng hình ảnh là một quốc gia dẫn đầu trong phản ứng toàn cầu với đại dịch, gửi khẩu trang, bộ xét nghiệm, đội ngũ y tế và cuối cùng là vaccine ra nước ngoài trước Hoa Kỳ và hầu hết các nhà tài trợ khác.
Tuy nhiên, các khoản viện trợ này chủ yếu nhắm đến các nước láng giềng của Trung Quốc hơn là những nơi có nhu cầu cấp bách nhất. Trong năm đầu tiên sau khi vaccine được tung ra, gần 3/4 số liều vaccine mà Trung Quốc quyên tặng đã đến các quốc gia Đông Nam Á, Nam Á và Thái Bình Dương. Campuchia nhận nhiều liều vaccine đến mức nước này bắt đầu tái phân phối chúng sang các quốc gia châu Á khác. Guyana và Nicaragua nhận vaccine Trung Quốc ngay sau khi khẳng định lại nguyên tắc “Một Trung Quốc” hoặc chuyển công nhận ngoại giao từ Đài Loan sang Bắc Kinh trong thời gian đại dịch. Trong khi chính quyền Biden cũng ưu tiên phân phối một số lô vaccine sớm của Hoa Kỳ cho khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương chiến lược, phần lớn số vaccine Mỹ viện trợ trong năm đầu tiên lại tập trung vào các khu vực có tỷ lệ tử vong cao nhất (Mỹ Latinh) hoặc nguồn cung khan hiếm nhất (châu Phi cận Sahara).
Sự im lặng đáng lo ngại
Khi chính quyền Trump kết thúc đợt rà soát 90 ngày về viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ vào ngày 19-4 sắp tới, vẫn chưa rõ hệ sinh thái y tế toàn cầu mà Hoa Kỳ đã xây dựng suốt 25 năm qua sẽ còn lại những gì. Dù Hoa Kỳ hành động ra sao, sự gián đoạn mà nước này khởi xướng sẽ tiếp tục lan rộng. Argentina, hưởng ứng Trump, đã rút khỏi WHO hồi đầu tháng này, và có thông tin rằng Hungary cùng Nga cũng đang cân nhắc làm điều tương tự.
Vương quốc Anh, nhà tài trợ lớn nhất cho Gavi, mới đây tuyên bố sẽ cắt giảm viện trợ phát triển từ 0,5% GDP xuống 0,3% vào năm 2027 để tăng ngân sách quốc phòng, một động thái phản ứng trước cam kết bấp bênh của Hoa Kỳ với Ukraine. Chính phủ Pháp, vốn đang gặp khó khăn về tài chính, đã đề xuất cắt giảm ngân sách viện trợ lên đến 40%. Chính quyền Đức mới đắc cử có thể sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì cam kết của nước này với WHO khi phải đối mặt với áp lực kinh tế gia tăng và chi tiêu quốc phòng cao hơn.
Đồng thời, với lòng tin tiêu dùng thấp, cuộc khủng hoảng bất động sản kéo dài và cuộc chiến thương mại leo thang với Hoa Kỳ, Trung Quốc đã phát tín hiệu sẽ tập trung ngân sách nhiều hơn vào phát triển trong nước với mục tiêu “phát triển chất lượng cao và đảm bảo an ninh cấp cao.”
Quỹ Gates, một nguồn tài trợ tiềm năng, thường ưu tiên các khoản đóng góp có mục đích cụ thể (chẳng hạn như xóa bỏ bệnh bại liệt) thay vì hỗ trợ chung cho WHO. Các chính quyền địa phương đang tìm cách gánh vác nhiều hơn, nhưng điều này có thể không khả thi ở nhiều nơi, đặc biệt là tại châu Phi cận Sahara, nơi trung bình mỗi quốc gia chỉ chi 92 USD/người mỗi năm cho y tế.
Trong bối cảnh này, nguy cơ thực sự không chỉ là Trung Quốc lợi dụng sự gián đoạn trong viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ để củng cố quan hệ với các quốc gia chủ chốt ở Đông Nam Á và Mỹ Latinh. Mối đe dọa lớn hơn đối với người dân Hoa Kỳ và toàn thế giới là phần lớn các chương trình y tế mà Mỹ từng hỗ trợ sẽ không được thay thế bằng bất kỳ nguồn lực nào khác.
Một số chương trình y tế cụ thể của Hoa Kỳ có thể tồn tại, chẳng hạn như phân phối màn chống muỗi phòng sốt rét, hoặc thuốc kháng virus và thuốc ngăn chặn lây truyền HIV từ mẹ sang con. Nhưng khi các chương trình an ninh y tế của Hoa Kỳ tan rã và các tổ chức y tế đa phương gặp khó khăn về tài chính, mạng lưới tinh vi của các hoạt động phòng ngừa, phát hiện và ứng phó với dịch bệnh—thứ bảo vệ tất cả mọi người, bao gồm cả người Mỹ—có nguy cơ bị phá vỡ. Việc phá bỏ cơ chế giám sát này sẽ tạo ra những “điểm mù,” nơi các bệnh truyền nhiễm mới có thể âm thầm phát triển trước khi chúng bùng phát và lan đến Hoa Kỳ. Điều này có thể mang lại cảm giác an toàn giả tạo—cho đến khi quá muộn.
Chuẩn bị thuốc tại một cơ sở y tế ở Nairobi, Kenya. Ảnh: Reuters