
Tại Baku vào tháng 11 năm ngoái, các bên tham gia hội nghị thượng đỉnh COP29 của Liên Hợp Quốc về khí hậu đã không đạt được thỏa thuận về nguồn tài chính khí hậu đủ lớn để giữ mức nóng lên trung bình toàn cầu dưới giới hạn 1,5 °C như đã đề ra trong Thỏa thuận Paris năm 2015.
Các quốc gia có thu nhập cao chỉ đồng ý “đi đầu” trong việc phân bổ ít nhất 300 tỷ USD mỗi năm cho các quốc gia thu nhập thấp và trung bình đến năm 2035. Tuy nhiên, mức đóng góp cụ thể của họ vẫn chưa được xác định rõ ràng và có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau. Trong khi đó, thỏa thuận tại Baku kêu gọi “tất cả các bên liên quan” gia tăng tổng mức tài trợ này lên ít nhất 1.300 tỷ USD mỗi năm.
Mặc dù những con số tiêu đề này thoạt nhìn có vẻ tương đồng với các đề xuất trước thềm COP29 của các chuyên gia tài chính khí hậu, nhưng thực tế, cách tiếp cận mơ hồ và phân tán này vẫn còn kém xa so với những gì thực sự cần thiết — cả về thời gian lẫn chất lượng.
Lý tưởng nhất, chúng tôi (*) đề xuất rằng tài chính khí hậu nên được cung cấp dưới dạng các khoản viện trợ công, hoặc tương đương. Như vậy, các quốc gia nhận viện trợ sẽ không cần phải tìm nguồn tiền từ nơi khác để trả nợ, và số tiền này có thể được sử dụng như “vốn xúc tác (catalytic capital)” để thu hút nguồn vốn tư nhân cùng đầu tư vào năng lượng tái tạo cho các nước thu nhập thấp. Viện trợ cũng có thể được dùng để chấm dứt sớm việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Việc phối hợp các nguồn vốn công và tư, song phương và đa phương mà COP29 cho phép là thiếu hiệu quả. Các chuyên gia cho rằng, để kịp thời khử cacbon toàn cầu, tài chính khí hậu cần được cấp đủ quy mô ngay trong năm nay, thay vì trì hoãn đến năm 2035.
Một trở ngại lớn khác tại Baku là yêu cầu về sự đồng thuận giữa các bên. Ví dụ, Nhóm các nước Ả Rập từ chối chấp nhận bất kỳ văn bản nào nhắm vào các ngành cụ thể, bao gồm cả nhiên liệu hóa thạch — mặc dù đây chính là nguồn phát thải chính mà tài chính khí hậu nhằm giảm thiểu.
Nếu không có tài chính khí hậu quy mô lớn, các nước thu nhập thấp không thể đủ khả năng khử cacbon. Và thời gian thì đang cạn dần. Để có ít nhất 50% cơ hội giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 1,5 °C theo Thỏa thuận Paris, thế giới chỉ còn giới hạn phát thải carbon khoảng 180 tỷ tấn CO2. Giới hạn này dự kiến sẽ cạn kiệt vào năm 2035 (nếu tốc độ giảm phát thải diễn ra kiểu dần đều từ mức phát thải ước tính khoảng 40 tỷ tấn vào năm 2025) hoặc sớm nhất là vào năm 2029 (nếu mức phát thải hiện tại tiếp tục duy trì). Vượt quá giới hạn này sẽ làm tăng nguy cơ vượt qua các điểm tới hạn của hành tinh, bao gồm sụp đổ các tảng băng, dòng hải lưu, rạn san hô và tầng băng vĩnh cửu (permafrost), đe dọa đến sinh kế và tính mạng của hàng tỷ người.
Cần phải hành động ngay lập tức để loại bỏ và thay thế nhiên liệu hóa thạch, đồng thời mở rộng quy mô các công nghệ loại bỏ CO2 và bảo vệ, phục hồi khả năng hấp thụ carbon của thiên nhiên. Nếu những biện pháp này được thực hiện đồng thời và ở quy mô lớn để đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, và sau đó là phát thải âm, khi đó mới có thể giới hạn mức tăng nhiệt toàn cầu ở mức 1,5 °C hoặc tiệm cận mức này. Năm nay là cơ hội đặc biệt để hành động, vì các quốc gia buộc phải cập nhật các cam kết giảm phát thải quốc gia theo Thỏa thuận Paris vào năm 2025.
Các quốc gia tìm ra giải pháp ngay lập tức. Lấy cảm hứng từ ý tưởng về các “câu lạc bộ khí hậu” — thỏa thuận giữa các quốc gia vì lợi ích kinh tế chung nhằm cắt giảm phát thải thông qua các chính sách đồng bộ —các liên minh gồm các nước thu nhập cao nên thành lập các “câu lạc bộ tài chính khí hậu” vì lợi ích của chính họ. Các câu lạc bộ này sẽ tài trợ cho việc khử cacbon tại các nước thu nhập thấp, tránh khỏi sự ràng buộc vào một thỏa thuận toàn cầu, vốn thường dẫn đến các cam kết bị làm loãng.
Lợi ích cho tất cả mọi người
Tại sao các quốc gia lại muốn chi tiền cho nước khác hành động? Bởi vì lợi ích kinh tế của chính họ là giảm phát thải toàn cầu càng nhanh càng tốt — và xét từ góc độ hành tinh, lượng phát thải xảy ra trong nước hay ở nơi khác cũng đều giống nhau.
Ví dụ, trong 6 tháng qua, các thiệt hại liên quan đến khí hậu từ bão Helene và Milton tại Hoa Kỳ, lũ lụt ở Valencia (Tây Ban Nha) và các vụ cháy rừng ở Los Angeles (California) ước tính đã vượt quá 500 tỷ USD. Con số này đã cao hơn nhiều so với mức tài trợ khí hậu hàng năm mà các nước thu nhập cao hiện đang cung cấp (khoảng 100 tỷ USD mỗi năm) và cả cam kết mà họ đưa ra tại COP29 cho năm 2035. Những chi phí này sẽ chỉ tiếp tục tăng cho đến khi lượng phát thải toàn cầu được kiểm soát.
Các nhóm quốc gia thu nhập cao phải bắt đầu xây dựng khung tài chính khí hậu cho các nước thu nhập thấp ngay trong năm nay. Họ nên cung cấp viện trợ dưới dạng tài trợ không hoàn lại cho các quốc gia này, bổ sung cho nỗ lực khử cacbon nhanh chóng của chính họ, chứ không phải cho ai khác.
Để tránh những tác động khí hậu tốn kém và khó chấp nhận về mặt xã hội, điều duy nhất quan trọng là lượng phát thải phải được cắt giảm càng nhanh càng tốt trên phạm vi toàn cầu. Để đạt hiệu quả tối đa, các khoản đầu tư nên được ưu tiên cao nhất cho các nước thu nhập thấp có cam kết trong bản cập nhật Paris 2025 của họ về việc cắt giảm phát thải đáng tin cậy — phù hợp với mục tiêu giữ nhiệt độ toàn cầu không vượt quá 1,5 °C so với mức trung bình thời kỳ tiền công nghiệp. Những quốc gia này có thể đưa ra các cam kết khử cacbon mạnh mẽ hơn để đủ điều kiện được nhận tài chính khí hậu. Khi các quốc gia nhận viện trợ khử cacbon nền kinh tế của họ, họ cũng đồng thời hưởng lợi từ việc giảm thiểu thiệt hại khí hậu trong nước và ô nhiễm không khí, từ đó giảm nhu cầu thích ứng.
Hiện đã có các liên minh quốc gia thu nhập cao sẵn sàng cung cấp tài chính khí hậu — ngay cả khi Hoa Kỳ không tham gia. Ví dụ, Liên minh châu Âu cùng với các quốc gia giàu có khác và các ngân hàng phát triển đa phương đã cung cấp tài chính khí hậu thông qua các Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETPs) cho Indonesia (20 tỷ USD) và Việt Nam (15 tỷ USD) — trong đó một nửa là từ các nguồn tư nhân. Các khoản đề nghị tương tự cũng được đưa ra cho Nam Phi (8,5 tỷ USD) và Senegal (2,7 tỷ USD). Những thỏa thuận như vậy hoàn toàn có thể được mở rộng cho các nước thu nhập thấp khác, đặc biệt là các quốc gia phát thải lớn như Colombia, Kazakhstan, Nigeria, Mexico, Thái Lan và Ấn Độ, những nước mà nếu cộng lại sẽ nhanh chóng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng lượng phát thải có thể tránh được. Tuy nhiên, cần có các điều chỉnh để khắc phục những hạn chế hiện tại.
Cho đến nay, JETPs chủ yếu cung cấp các khoản vay thay vì viện trợ không hoàn lại — ví dụ, tại Indonesia, chỉ có 2% số tiền từ JETP là viện trợ. Tuy nhiên, các khoản vay lại làm gia tăng nợ công của các nước thu nhập thấp và không cung cấp vốn để thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân vào năng lượng tái tạo, hay tạo động lực để đóng cửa sớm cơ sở hạ tầng nhiên liệu hóa thạch. Chẳng hạn, kế hoạch loại bỏ than ở Nam Phi đã bị đình trệ do thiếu viện trợ đủ lớn và thiếu một chiến lược rõ ràng, làm dấy lên lo ngại về an ninh năng lượng cũng như làm chậm quá trình chuyển đổi.
Câu lạc bộ tài chính khí hậu cần làm khác đi. Trước hết, họ nên cung cấp các khoản viện trợ lớn hơn so với những gì JETPs hiện đang làm. Tất cả nguồn vốn công nên được cấp dưới dạng viện trợ không hoàn lại, và việc nhận vốn cần đi kèm điều kiện là có một kế hoạch thực thi đáng tin cậy, cùng với sự minh bạch trong việc loại bỏ nhiên liệu hóa thạch và đưa năng lượng tái tạo vào thay thế.
Lợi nhuận vững chắc
Để minh họa cách một câu lạc bộ tài chính khí hậu có thể hoạt động (tập trung vào việc loại bỏ và thay thế nhiên liệu hóa thạch), chúng tôi đã phân tích tính khả thi về kinh tế cho một nhóm quốc gia có đủ năng lực tài chính và động lực để hỗ trợ khử cacbon cho các nước thu nhập thấp. Nhóm này không bao gồm Hoa Kỳ nhưng có các quốc gia G7 còn lại cũng như Liên minh châu Âu, Na Uy, Thụy Sĩ, Úc và Hàn Quốc. Chúng tôi cũng loại trừ Trung Quốc và các quốc gia vùng Vịnh giàu có khỏi nhóm nhận viện trợ, do họ có khả năng tự tài trợ cho quá trình chuyển đổi của mình. Điều này giúp giảm nhu cầu tài chính khí hậu xuống còn khoảng 500 tỷ USD mỗi năm.
Sử dụng các phương pháp kinh tế đơn giản, chúng tôi ước tính rằng việc khử cacbon tại các quốc gia thu nhập thấp theo lộ trình phát thải ròng bằng 0 phù hợp với mục tiêu 1,5 °C sẽ đòi hỏi khoản viện trợ khí hậu từ liên minh các quốc gia thu nhập cao lên tới 124,3 tỷ USD mỗi năm trong giai đoạn 2025–2035. Con số này tương đương với 0,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của các quốc gia thành viên liên minh trong cùng thời kỳ.
Chúng tôi nhận thấy tỷ suất lợi nhuận từ khoản đầu tư này cho liên minh các nước giàu dao động từ khoảng 9% đến hơn 500%, tùy thuộc vào giá trị giả định của ‘chi phí xã hội của carbon’. Đây là chi phí thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu khi phát thải thêm một tấn CO2, ước tính dao động từ khoảng 190 USD mỗi tấn — mức mà chính quyền cựu Tổng thống Mỹ Joe Biden đã sử dụng, dựa trên một nghiên cứu năm 2022 — đến 1.056 USD mỗi tấn, con số phù hợp với phân tích vào năm 2024. Ước tính cao hơn phản ánh việc sử dụng mức biến thiên nhiệt độ toàn cầu thay vì ở cấp quốc gia, vốn có mối tương quan tốt hơn với các hiện tượng khí hậu cực đoan.
Những thách thức thực tiễn
Vẫn còn nhiều chi tiết cần phải làm rõ. Ví dụ, trên thực tế, một số quốc gia sẽ không đệ trình các kế hoạch đáng tin cậy phù hợp với Thỏa thuận Paris, đồng nghĩa với việc liên minh có thể chỉ tài trợ cho từng quốc gia riêng lẻ. Để tránh sự chênh lệch giữa các kế hoạch đệ trình và hành động thực tế, việc giải ngân các khoản tài trợ nên được gắn với các cột mốc cụ thể mà các quốc gia thu nhập thấp đạt được, trong đó khoản thanh toán của kỳ tiếp theo sẽ dựa trên lượng phát thải giảm được trong kỳ trước.
Thách thức lớn nhất, theo chúng tôi, là huy động cam kết tài chính công cho khí hậu ở quy mô cần thiết. Các ngân hàng phát triển đa phương là các đơn vị trung gian tự nhiên cho các quỹ này, nhưng chính họ cũng cần được tăng cường vốn để đảm nhận vai trò này. Đồng thời, các ngân hàng này cũng cần thay đổi mô hình kinh doanh từ cấp vốn dựa trên các khoản vay sang cấp vốn dựa trên viện trợ không hoàn lại, và từ tài trợ theo từng dự án sang tài trợ quy mô hệ thống, nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng trên toàn quốc.
Các bước tiếp theo
Việc cập nhật đóng góp quốc gia cho Thỏa thuận Paris trong năm nay là cơ hội tốt nhất tiếp theo để định hướng lộ trình khử cacbon toàn cầu phù hợp với giới hạn 1,5 °C. Theo đó, các nước thu nhập thấp nên đệ trình các kế hoạch khử cacbon đáng tin cậy căn cứ vào việc nhận tài chính khí hậu. Và các liên minh quốc gia giàu có phải chủ động đứng ra để cung cấp nguồn tài trợ này.
Tài chính khí hậu cần được đặt lên hàng đầu trong chương trình nghị sự của các cuộc họp đa phương then chốt. Các sự kiện này bao gồm các cuộc họp sắp tới của Liên minh Bộ trưởng Tài chính vì Hành động Khí hậu, các phiên tham vấn trong khuôn khổ Road to Belém trước thềm COP30 diễn ra tại Brazil vào tháng 11, các cuộc họp mùa xuân của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, cũng như hội nghị thượng đỉnh G7 tại Canada vào tháng 6.
Tài chính khí hậu là yếu tố thiết yếu nếu thế giới muốn khử cacbon. Đây không phải là viện trợ nước ngoài — mà là một khoản đầu tư sinh lợi cao nhằm đảm bảo sự ổn định kinh tế toàn cầu và an ninh khí hậu vì lợi ích của tất cả mọi người, bao gồm cả các quốc gia giàu có.
(*) Bài viết được thực hiện bởi nhóm 5 tác giả chuyên về khí hậu và tài chính khí hậu từ các nước Anh, Đức và Bỉ. Các tác giả gồm Patrick Bolton, Ottmar Edenhofer, Alissa Kleinnijenhuis, Johan Rockström, và Jeromin Zettelmeyer
Một nhà máy nhiệt điện than ở Komati, Nam Phi, đã ngừng hoạt động vào năm 2022 như một phần trong kế hoạch loại bỏ nhiên liệu hóa thạch của quốc gia này. Ảnh: Getty
Các tấm pin mặt trời tại Indonesia. Quốc gia này sẽ nhận được 20 tỷ USD để khử cacbon trong vài năm tới theo khuôn khổ Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP). Ảnh: Getty
Một trang trại điện gió ngoài khơi tại Việt Nam. Ảnh: Bloomberg