
Internet ngày nay sẽ không còn như cũ nếu không có nút Like – biểu tượng ngón tay cái giơ lên mà Facebook và nhiều dịch vụ trực tuyến khác đã biến thành “mồi câu” kỹ thuật số.
Thích hay không, nút Like đã trở thành chất xúc tác sáng tạo, hệ thống phân phối chất dẫn truyền thần kinh dopamine và đôi khi là một chiếc búa đập vào cảm xúc. Nó thậm chí từng là một điểm đến nổi tiếng của du khách quốc tế khi Facebook dựng một tấm biển khổng lồ với biểu tượng này bên ngoài trụ sở ở Thung lũng Silicon, trước khi công ty đổi tên thành Meta Platforms vào năm 2021.
Một cuốn sách mới có tên “Like: The Button That Changed The World” (Like: Nút bấm đã thay đổi thế giới) kể lại câu chuyện phức tạp đằng sau biểu tượng đã trở thành vừa là phước lành vừa là lời nguyền của xã hội kỹ thuật số.
Đây là câu chuyện bắt đầu từ các trận đấu sinh tử của võ sĩ giác đấu dưới thời Đế chế La Mã, rồi đến đầu thế kỷ 21, khi những nhà tiên phong công nghệ như đồng sáng lập Yelp Russ Simmons, đồng sáng lập Twitter Biz Stone, đồng sáng lập PayPal Max Levchin, đồng sáng lập YouTube Steve Chen, và cha đẻ Gmail Paul Buchheit cùng nhau thử nghiệm nhiều cách dùng “biểu tượng ghi nhận” để thúc đẩy người dùng tạo nội dung hấp dẫn trên mạng mà không cần trả phí.
Trong quá trình đó, một nhân viên của Yelp tên là Bob Goodson đã ngồi lại vào ngày 18-5-2005 và vẽ sơ một hình ngón tay cái lên/xuống để thể hiện ý kiến về các bài đánh giá nhà hàng trên trang. Yelp không chọn biểu tượng này mà thay vào đó dùng các nút “hữu ích”, “hài hước” và “ngầu” do Simmons nghĩ ra. Tuy nhiên, tìm thấy bản vẽ cũ ấy đã thôi thúc Goodson cùng Martin Reeves viết nên cuốn sách về nguồn gốc của nút Like.
“Nó đơn giản mà thanh lịch. Nút Like nói rằng: ‘Tôi thích bạn, tôi thích nội dung của bạn. Tôi giống bạn, tôi là một phần của nhóm bạn,’” Reeves nói với AP. “Nhưng thật khó để trả lời câu hỏi đơn giản: ‘Ai là người phát minh ra nút Like?’”
Dù Facebook là lý do chính khiến nút Like trở nên phổ biến toàn cầu, họ không phát minh ra nó và thậm chí suýt bỏ qua. Phải mất gần hai năm Facebook mới vượt qua được sự phản đối quyết liệt của CEO Mark Zuckerberg để chính thức giới thiệu nút Like vào ngày 9-2-2009 – năm năm sau khi mạng xã hội này được tạo ra tại ký túc xá Đại học Harvard.
Như nhiều đổi mới khác, nút Like ra đời từ nhu cầu, nhưng không phải ý tưởng của riêng một cá nhân. Khái niệm này đã được ấp ủ hơn một thập kỷ ở Thung lũng Silicon trước khi Facebook đón nhận nó.
“Đổi mới thường mang tính xã hội, và Thung lũng Silicon là nơi thích hợp vì có văn hóa gặp gỡ chia sẻ,” Reeves nói. “Ai cũng đang nói về việc mình đang làm, và nhiều người trong số đó tình cờ đang nghiên cứu thứ giống nhau.”
Nỗ lực tạo ra một cơ chế đơn giản để thể hiện sự tán thành hoặc không hài lòng trên môi trường số đã nảy sinh từ làn sóng các dịch vụ trực tuyến như Yelp và YouTube — những nền tảng mà sự thành công phụ thuộc vào khả năng đăng tải bình luận hoặc video nhằm giúp trang web của họ trở nên phổ biến hơn, mà không cần tốn quá nhiều chi phí cho nội dung. Nỗ lực đó đòi hỏi một cơ chế phản hồi (feedback loop) không phức tạp, dễ sử dụng và tiếp cận.
Và biểu tượng ngón tay cái giơ lên hay giơ xuống của Goodson không phải từ hư không mà có. Nó được khơi dậy từ bộ phim “Gladiator” đoạt giải Oscar, nơi Hoàng đế Commodus – do Joaquin Phoenix thủ vai – dùng cử chỉ tay để quyết định sống chết cho các võ sĩ.
Nhưng cảm giác tích cực gắn liền với biểu tượng này còn xuất hiện sớm hơn trong văn hóa đại chúng – nhờ nhân vật Fonzie do Henry Winkler đóng trong loạt phim nổi tiếng thập niên 1970 Happy Days. Sau đó, cử chỉ này được dùng để thể hiện sự hài lòng qua nút điều khiển từ xa trên thiết bị ghi hình kỹ thuật số TiVO đầu thập niên 2000. Cùng thời điểm đó, Hot or Not – một trang web cho phép đánh giá ngoại hình – cũng đã thử nghiệm ý tưởng giúp truyền cảm hứng cho nút Like, theo nghiên cứu của cuốn sách.
Nhiều ý tưởng từ các nền tảng như Digg, Xanga, YouTube và Vimeo cũng góp phần xây dựng nên khái niệm này.
Nhưng không nghi ngờ gì, Facebook đã biến nút Like thành biểu tượng được hiểu trên toàn cầu – và cũng là bên kiếm lời nhiều nhất từ nó. Điều đáng nói là điều đó suýt không xảy ra.
Từ năm 2007, kỹ sư của Facebook đã thử nghiệm với nút Like, nhưng Zuckerberg phản đối vì cho rằng mạng xã hội này đã quá rối và “không muốn làm gì đó tầm thường, khiến dịch vụ mất giá trị,” theo lời Reeves.
Trong khi đó, FriendFeed – một mạng xã hội cạnh tranh do Buchheit và nay là Chủ tịch OpenAI Bret Taylor sáng lập – đã ra mắt nút Like vào tháng 10-2007.
Nhưng FriendFeed không thành công và cuối cùng bị Facebook mua lại. Khi thương vụ hoàn tất, Facebook đã giới thiệu nút Like – sau khi bỏ qua ý tưởng đặt tên là nút “Awesome” vì “không gì tuyệt vời hơn awesome,” theo sách ghi lại.
Khi Zuckerberg chấp thuận, Facebook nhanh chóng nhận thấy nút Like không chỉ giữ chân người dùng mà còn giúp họ hiểu rõ sở thích cá nhân – từ đó bán quảng cáo nhắm mục tiêu, chiếm phần lớn trong tổng doanh thu 165 tỷ USD của Meta năm ngoái. Thành công này khiến Facebook tiếp tục mở rộng, cho phép các nền tảng khác tích hợp nút Like và đến năm 2016 bổ sung sáu cảm xúc mới: “Yêu thích,” “Quan tâm,” “Haha,” “Wow,” “Buồn,” và “Tức giận.”
Facebook chưa từng công bố số lượng tương tác tích lũy từ nút Like và các biểu tượng liên quan, nhưng Levchin cho rằng có thể đã lên đến hàng nghìn tỷ. “Biết được nội dung nào được con người yêu thích… có lẽ là điều giá trị nhất trên Internet,” ông nói trong sách.
Tuy nhiên, nút Like cũng góp phần tạo nên làn sóng khủng hoảng tâm lý – đặc biệt ở thanh thiếu niên khi bài đăng không ai chú ý, hay những người ái kỷ sống nhờ vào phản hồi tích cực. Reeves cho rằng đây là hậu quả ngoài ý muốn, bởi “nếu bạn còn không thể dự đoán lợi ích của một sáng kiến công nghệ, thì làm sao có thể lường trước được tác dụng phụ và cách can thiệp?”
Dù vậy, ông tin rằng nút Like đã chạm đến điều gì đó rất con người.
“Chúng tôi nghĩ rằng sự tình cờ trong đổi mới là một phần quan trọng,” Reeves nói. “Và tôi không nghĩ chúng ta dễ chán với việc ‘like’ hay dễ từ bỏ nhu cầu được khen – bởi đó là kết tinh từ 100.000 năm tiến hóa của loài người.”
Hình ảnh cho thấy một bản phác thảo của Bob Goodson, trong đó có ý tưởng sơ khai về thứ sau này trở thành nút Like, vào ngày 18 tháng 5 năm 2005. Ảnh: AP